Hoạt động ngân hàng Ngân_hàng

Các hoạt động tiêu chuẩn

Cửa để mở ngân khố của ngân hàng

Các ngân hàng hành động như các đại lý thanh toán bằng cách quản lý các tài khoản séc hoặc vãng lai cho khách hàng, trả tiền các séc được rút bởi khách hàng tại ngân hàng, và thu các séc gửi vào tài khoản vãng lai của khách hàng. Các ngân hàng cũng cho phép khách hàng thanh toán qua các phương thức thanh toán khác như thanh toán bù trừ (ACH), chuyển khoản trong nước hoặc chuyển khoản quốc tế, EFTPOSmáy rút tiền tự động (ATM).

Các ngân hàng vay tiền bằng cách nhận các khoản tiền được ký quỹ trên các tài khoản vãng lai, nhận tiền gửi kỳ hạn và phát hành các chứng khoán nợ như tiền giấytrái phiếu. Các ngân hàng cho vay tiền bằng cách ứng trước cho khách hàng trên tài khoản vãng lai, cho vay trả góp, đầu tư vào chứng khoán nợ có thể giao dịch trên thị trường và các hình thức cho vay tiền khác.

Các ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán khác nhau, và một tài khoản ngân hàng được coi là thứ không thể thiếu của hầu hết các doanh nghiệp và cá nhân. Các tổ chức phi ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán như các công ty chuyển tiền thường không được coi là một sự thay thế thích hợp cho một tài khoản ngân hàng.

Các ngân hàng có thể tạo ra tiền mới khi họ cho vay. Các khoản vay mới trên toàn hệ thống hoạt động ngân hàng tạo ra tiền gửi mới ở những nơi khác trong hệ thống. Cung tiền này thường được tăng bởi hành vi cho vay và giảm đi khi các khoản vay được hoàn trả nhanh hơn so với những khoản vay mới được tạo ra. Ở Vương quốc Anh từ năm 1997 đến 2007, đã có một sự gia tăng lớn trong việc cung cấp tiền, chủ yếu là do ngân hàng cho vay nhiều hơn, điều này được dùng để đẩy giá bất động sản và tăng nợ tư nhân. Số tiền trong nền kinh tế được đo bằng M4 ở Anh đã tăng từ 750 tỷ bảng Anh lên 1700 tỷ bảng Anh từ năm 1997 đến năm 2007, phần lớn sự gia tăng này do ngân hàng cho vay.[8] Nếu tất cả các ngân hàng tăng cho vay của họ cùng nhau, sau đó họ có thể mong đợi các tiền gửi mới để trả lại cho họ và số tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cho vay quá mức hoặc nguy hiểm có thể làm cho những người vay vỡ nợ, các ngân hàng sau đó trở nên thận trọng hơn, do đó, cho vay ít hơn và do đó ít tiền để nền kinh tế có thể đi từ sự bùng nổ tới phá sản như đã xảy ra ở Anh và nhiều nền kinh tế phương Tây khác sau năm 2007.

Các kênh

Các ngân hàng cung cấp nhiều kênh khác nhau để truy cập vào hoạt động ngân hàng và các dịch vụ khác của họ:

  • Máy rút tiền tự động
  • Chi nhánh là một địa điểm bán lẻ
  • Sở giao dịch
  • Thư tín: hầu hết các ngân hàng nhận ký quỹ séc qua đường bưu chính và sử dụng email để liên lạc với khách hàng của họ, ví dụ như bằng cách gửi ra báo cáo
  • Hoạt động ngân hàng di động là một phương pháp sử dụng điện thoại di động của một người thực hiện giao dịch ngân hàng
  • Ngân hàng trực tuyến là một thuật ngữ được sử dụng để thực hiện nhiều giao dịch, vv thanh toán qua Internet
  • Quản lý mối quan hệ, chủ yếu là hoạt động ngân hàng tư nhân, hoạt động ngân hàng kinh doanh, thường xuyên thăm hỏi khách hàng tại nhà hoặc doanh nghiệp của họ
  • Hoạt động ngân hàng điện thoại là một dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện giao dịch qua điện thoại với điện thoại viên tự động hoặc khi có yêu cầu với tổng đài điện thoại
  • Hoạt động ngân hàng Video là một thuật ngữ được sử dụng cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng hoặc các tư vấn hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp thông qua một kết nối video và âm thanh từ xa. Hoạt động ngân hàng Video có thể được thực hiện thông qua mục đích xây dựng các máy nghiệp vụ hoạt động ngân hàng (tương tự như một máy rút tiền tự động), hoặc thông qua một hội nghị video cho phép làm rõ chi nhánh ngân hàng.

Mô hình kinh doanh

Một ngân hàng có thể tạo ra doanh thu theo nhiều cách khác nhau bao gồm tiền lãi, các phí nghiệp vụ và tư vấn tài chính. Phương pháp chính là thông qua tính phí tiền lãi trên phần vốn cho các khách hàng vay.[cần dẫn nguồn] Lợi nhuận ngân hàng từ sự khác biệt giữa mức tiền lãi nó trả cho tiền gửi và các nguồn vốn khác, và mức tiền lãi nó tính phí trong hoạt động cho vay của mình.

Sự khác biệt này được gọi là chênh lệch giữa chi phí cấp vốn và lãi suất cho vay. Trong lịch sử, khả năng lợi nhuận từ các hoạt động cho vay là có tính chu kỳ và phụ thuộc vào nhu cầu và sức mạnh của khách hàng vay và giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Các phí và tư vấn tài chính là luồng thu nhập ổn định hơn và do đó các ngân hàng đã chú trọng hơn vào những dòng doanh thu này để làm mịn hiệu quả tài chính của họ.

Trong 20 năm qua các ngân hàng Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo rằng họ vẫn có thể có lợi nhuận trong khi đáp ứng các điều kiện thị trường ngày càng thay đổi.

Đầu tiên, điều này bao gồm Đạo luật Gramm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng một lần nữa để kết hợp với đầu tư và bảo hiểm nhà. Việc sáp nhập ngân hàng, các chức năng đầu tư và bảo hiểm cho phép các ngân hàng truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng "giao dịch một cửa" bằng cách cho phép bán chéo các sản phẩm (điều này, các ngân hàng hy vọng, cũng sẽ tăng khả năng lợi nhuận).

Thứ hai, họ đã mở rộng việc sử dụng định giá dựa trên rủi ro từ cho vay kinh doanh sang cho vay tiêu dùng, có nghĩa là tính lãi suất cao hơn cho những khách hàng được coi là một rủi ro tín dụng cao hơn và do đó tăng cơ hội của vỡ nợ trên các khoản vay. Điều này giúp bù đắp những tổn thất từ ​​các khoản vay xấu, làm giảm giá của các khoản vay cho những người có lịch sử tín dụng tốt hơn, và cung cấp các sản phẩm tín dụng cho các khách hàng có rủi ro cao, người mà trong điều kiện khác sẽ bị từ chối tín dụng.

Thứ ba, họ đã tìm cách tăng các phương pháp xử lý thanh toán có sẵn cho công chúng nói chung và khách hàng kinh doanh. Những sản phẩm này bao gồm thẻ ghi nợ, thẻ trả trước, thẻ thông minh, và thẻ tín dụng. Chúng làm cho dễ dàng hơn đối với người tiêu dùng để thực hiện giao dịch một cách thuận tiện và làm mịn tiêu thụ của họ theo thời gian (trong một số quốc gia với hệ thống tài chính kém phát triển, nó vẫn còn phổ biến để xử lý nghiêm bằng tiền mặt, bao gồm việc mang các vali đầy tiền mặt để mua một ngôi nhà).

Tuy nhiên, với sự tiện lợi của tín dụng dễ dàng, cũng có nguy cơ tăng lên rằng người tiêu dùng sẽ quản lý dở các nguồn lực tài chính của họ và tích lũy nợ quá mức. Các ngân hàng làm ra tiền từ các sản phẩm thẻ thông qua thanh toán có lãi và các phí được tính cho người tiêu dùng và các phí nghiệp vụ cho các công ty chấp nhận thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ.Điều này giúp cho việc làm ra lợi nhuận và tạo điều kiện phát triển kinh tế nói chung.[9]

Các sản phẩm

Một hiệp hội xây dựng cũ, bây giờ là ngân hàng bán lẻ tại Leeds, West Yorkshire. Quang cảnh bên trong một chi nhánh của National Westminster Bank tại Castle Street, Liverpool

Hoạt động ngân hàng bán lẻ

Hoạt động ngân hàng doanh nghiệp (hay thương mại/đầu tư)

Liên quan

Ngân hàng Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội Ngân hàng Chính sách xã hội Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam Ngân hàng trực tuyến

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngân_hàng http://www.bankthebank.com http://www.ft.com/cms/s/0/a034542e-5771-11de-8c47-... http://books.google.com/?id=uIrWLegNZxUC&pg=PA431&... http://books.google.com/books?id=a03zkw-5fcEC http://books.google.com/books?id=a03zkw-5fcEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=k1OYMZ8OzMUC http://books.google.com/books?id=k1OYMZ8OzMUC&pg=P... http://www.nytimes.com/2009/07/04/business/04broke... http://thegatewayonline.com/articles/banking-finan... http://www.thestreet.com/story/10385783/how-banks-...